Cây nửa rụng lá, cao từ 20 – 30 m, đường kính 40 – 65 cm, thân hình trụ thẳng, phân cành ngang tán hình tháp thưa. Vỏ thân màu xám nâu, nứt dọc, có nhiều gai nhọn ở gốc, dài 7 – 15 cm. Thịt vỏ dày 1,2 – 1,7 cm, tầng vỏ ngoài màu nâu mỏng, dễ bong, tầng giữa màu vàng và có nhiều nhựa thơm màu vàng tươi, để lâu biến thành màu đen. Cành non có lông màu vàng. Lá đơn nguyên, mọc đối, hình bầu dục dài, dài 7 – 9 cm, rộng 1,2 – 1,4 cm, nhẵn bóng, màu xanh pha nâu hồng, đầu thuôn dần thành mũi ngắn, gốc lá hình nêm. Gân bên 7 – 8 đôi. Cuống lá dài 4 – 5 mm. Cụm hoa thành bó 5 – 8 hoa ở các kẽ lá rụng, màu hồng, có mùi thơm. Hoa có 5 cách đài hình trứng. Cánh tràng 5, hình trứng ngược, họng tràng có vảy và có 3 tuyến. Nhị đực nhiều xếp thành 3 bó. Bầu hình nón 3 cạnh, 1 vòi nhụy. Quả nang hình trứng, dài 8 – 9 mm, rộng 4 – 5 mm, màu nâu. Ở Việt Nam cây mọc rộng rãi ở vùng Nam Trung Bộ, trong rừng nửa rụng lá có mùa mưa và mùa khô xen kẽ, chịu hạn. Mùa quả tháng 6 – 8. Cây có gỗ mịn, ít bị mục, mối mọt nên được dùng làm đồ mỹ nghệ. Cây cho nhựa thơm. Lá non, nụ hoa ăn được, lá pha trà uống dễ tiêu, giải nhiệt. |